Thứ Tư, 12 tháng 2, 2020

TRẦN TRIỀU CHÂN KINH

TRẦN TRIỀU CHÂN KINH

Khấn Việt Nam Quốc: Địa chỉ ... Năm... tháng... ngày... Tín Sỹ: ......
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
 
TỊNH TÂM THẦN CHÚ :
Thái Thượng duyên sinh
ứng biết vô đình
Khu tà phọc mỵ
Luyện khí bảo tinh
Trí tuệ minh tĩnh
Tâm thần an ninh
Tam hồn vĩnh cửu
Phách vô táng khuynh
Cấp cấp như luật lệnh

TỊNH THÂN THẦN CHÚ :
Hưng Đạo Đại Vương
An úy thân hình
Đệ tử hồn phách
Ngũ tạng huyến minh
Thanh Long Bạch Hổ
Đội trượng phân vân
Chu Tước Huyền Vũ
Thị vệ ngã thân
Cấp cấp như luật lệnh

TỊNH KHẨU THẦN CHÚ :
Đan chu khẩu thẫn
Thổ nế trừ phận
Thiệt thần chính luân
Thông mạnh dưỡng thần
La thiên xỉ thần
Khước tà vệ chân
Hẩu thần hổ bôn
Thân khí dẫn tân
Tâm thần đan nguyện
Linh ngã thông chân
Tư thần luyện dịch
Đạo khí trường tồn
Cấp cấp như luật lệnh

CỬ HƯƠNG THẦN CHÚ :
Tâm hương nhất triện
Thấu đạt Cửu Thiên
Thanh cung mật vật giáng chân tiên
Đệ tử chí tâm bái tọa tiền
Ngưỡng kỳ phúc lộc thọ miên duyên
Chí tâm phục mệnh lễ Đại Thiên Tôn


THANH CUNG LIỆT TƯỚNG BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Trùng Hưng Danh Tướng
Đại Vương gia thần
Tùy sư phá tặc
Ái quốc trung quân xỉ thạch mạc từ
Doãn địch cần vương chi chí
Gian lao bất cãi
Trường lưu hứa quốc chi tâm
Khuông phù miếu xã
Kỷ lặc danh huấn chí linh chí hiển
Chí dũng chí nhân
Trần Triều Liệt Vị Môn

Khách Tướng Quân Thiên Tôn
TỨ VỊ VƯƠNG TỬ BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Đại Vương thể tử
Trần thất ý thâu
Hiếu trung doãn địch
Hưu thích dữ đồng
Lục Đầu Giang thượng phá Nguyên binh
Bảo Kim âu chi vĩnh điện
Vạn Kiếp rinh trung tùy thánh phụ
Lao thạch mã ư kỹ hồi sinh vi tướng hóa vi thần
Lịch triều phong tặng
Đức ư dân công ư quốc
Vạn cổ tôn sùng
Chí linh chí hiển
Đại hiếu đại trung
Trần Triều Vương Tử :

Hưng Vũ Đại Vương
Hưng Hiến Đại Vương
Hưng Nhượng Đại Vương
Hưng Trí Đại Vương 

Liệt Vị Tôn Thần Thiên Tôn
 
PHẠM ĐẠI VƯƠNG BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Nam bang nhân kiệt
Đông A danh thần
Hung trung thao lược
Chưởng thượng kinh luân
Hoành sáo kỷ thu
Hộ giang sơn ư bách chiến
Tích phù ngũ mạnh
Mông dản quyến ư Trùng Hưng
Trung hiếu nhất sinh tâm
Băng ngọc tiễn đồng vinh chi dự
Minh ương thiên tải hội
Phong vân phù chung cổ chi linh
Tận trung tận hiếu
Năng vũ năng văn
Trần Triều Điện Súy
Thượng Tướng Quân Quan Nội
Hầu Phạm Đại Vương Thiên Tôn
ĐỆ NHẤT VƯƠNG NỮ BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Thông minh địa bộ
Cốt cách thiên sinh
Phi tiên ứng mộng long nữ tá hình
Đông A chi ngọc diệp lưu căn
Giáng sơn chúng tá
Nam Việt chi Kim âu 
vĩnh điện thảo mộc hiệu linh
Hương chú xuân viên
Thụ kiến nhi rao tiên chỉ điểm
Hoa bái trận pháp
Huy kỳ nhi Nguyên khấu hổn kinh
Vương Nữ liệt thần phi
Môn my quang thái
Thâm cung tán nội trị
Triều rã thanh bình
Thị tiên thị thánh
Tối tú tối linh
Trần Triều Nhân Tôn Hoàng Hậu
Đệ Nhất Vương Nữ
Quyên Thanh Công Chúa Đại Thiên Tôn

ĐỆ NHỊ VƯƠNG NỮ BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Ngụ phù mạnh phụ
Tam giới trích tiên
Đoan trang địa tú
Cốt cách thiên nhiên
Hài đồng nhi thụ dưỡng Trần môn
Vương Nữ liên xưng tỷ muội
Kê tự nhi vu quy Phạm tộc
Súy thần hảo hợp nhân duyên
Tòng tỷ xuân viên
Vân chúng tiên gia chi kiếm
Tán nhung duy ốc
Phong minh dược lĩnh chi chiên
Hiển Thánh
Nhi linh thanh thiên cổ
Phong thần nhi hương hỏa ức niên
Mặc hương di tích phù miếu
hàn yên thị Tiên thị Thánh
Trần Triều Phạm Điện Súy Phu Nhân
Đệ Nhị Vương Nữ
Thủy Tiên Công Chúa Đại Thiên Tôn

NGUYÊN TỪ QUỐC MẪU BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Đông A ngọc diệp
Mam mặc kinh chí chân dung diệu tướng
Khuê tú kiều tư
Nhị bát thanh xuân
Hoàn bội y nhiên đế nữ
Tam sinh hồng tịch
Sắt cầm tảo chính Vương Phi
Trung hiền tụy vu nhất môn
Tử nữ vi vương vi hậu
Thanh linh truyền ư vạn thế
Nhân dân mộ đức
Mộ từ
Chí nhân chí hiển
Đại nguyện đại bi
Trần Triều Vương Phi
Thiên Thành Thái Trưởng Công Chúa
Nguyên Từ Quốc Mẫu
Cứu Thế Đại Thiên Tôn

KHẢI THÁNH VƯƠNG MẪU BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Đông A Khải Thánh
Trần thị phu nhân
Dung tư yễu điệu
Tính chất trinh thuần chấp
Phụ đạo dĩ sự huy hoàng
Chu gia thục nữ
Đản Mẫu nghi nhi dục thánh tử
Tống thế tuyên nhân
Đức quán Vương Phi
Huyền thập tứ cung
Vi chi sử kính ân thùy xích tử
Phổ vạn thiên đới mộ chi từ vân tối linh tối tú
Toàn đức toàn chân
Trần Triều Khải Thánh Vương Phu Nhân
Thiện Đạo Quốc Mẫu Nguyên Quân 
Cứu Thế Đại Thiên Tôn

KHẢI THÁNH VƯƠNG PHỤ BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Đặng tiền phái diễn
Trần - hậu mưu di
Đế - vương nhất mạch
Huynh đệ đồng chi
Chức Thái Úy dĩ bỉnh quân
Hoàng gia vọng trọng
Tước thân vương nhi tựu trấn
Tôn thất thủ suy ngũ an chi địa mộc thang
Đáo xứ nhi thảo hoa sinh sắc
Vạn Kiếp chi sơn hoàn nhiễu
Ái lư nhi phong thủy hiến kỳ
Đệ huynh chi nghĩa hợp khiêm tam
Hổn nhiên thiên tính
Vương Phụ chi đức long càn nhị
Thị nhĩ dân di
Chí cương chí chính
Đại từ đại bi
Trần Triều Khải Thánh
An Sinh Vương
Truy phong Khâm Minh Đại Vương
Linh Hiển Đại Thiên Tôn

HIỂN THÁNH BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ
Đông A đế trụ
Nam Đảo tiên tông
Phù quốc cứu dân
Đẳng quân thân vu thiên địa
Xừ gian thảo loạn
Phấn uy võ vu bắc nam
Nhất thân gia quốc chi hoài
Ân ưu Khải Thánh
Vạn cổ đan thanh nhất bức
Trác quán tôn thần
Thịnh đức văn ư đại bang
Thiên thư quả định
Dư linh trấn hồ Việt điện
Quỷ tý tiềm hình
Võ tước gia phong
Thiên cung thống nhiếp hồ văn thân chi địa
Lộc tịch thế chưởng
Nhân giới hồ hóa dục chi phương
Cửu Thiên Vũ Đế
Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương
Trần Triều Hiển Thánh Thiên Tôn

KHAI KINH KỆ
Tụng đắc chân kinh độ thế nhân
Toàn gia khang cát hưởng trườngxuân
Phàm tâm nhược thức thần thông pháp
Nhất thiết tai ương tận hóa trần

ĐẠI VƯƠNG CHÍNH KINH VĂN
Đế tích tại trần thời
Khâm mông
Ngọc chỉ giáng sinh
Phù quốc cứu dân
Duy trung duy hiếu
Huân thành quả mãn tái phụng hồi chứng thần vị
Sắc phong
Cửu Thiên Vũ Đế
Trấn trị Nam phương
Hiển linh chấn uy
Khâm sai văn võ bộ quan
Thượng tuân Thánh lệnh
Hạ độ nhân gian
Tư sát chi hạ giới
Chúng đệ tử đẳng
Thân tuy đầu thành
Nhi tâm bất nội tĩnh
Sở dĩ cầu chi hữu ứng
ứng chi bất cửu
Chung luân tịch mịch thế đạo nhân tâm
Khả thăng tích tai
Đế kim cứ
Phạm Điện Súy Tướng Quân
Cung nghinh thần giá
Quan lâm Hà Lạc vọng từ
Giáng bút thành kinh
Dĩ huân thế viết
Nhân ? Sinh thiên địa gian
Yếu đương tố thánh hiền sự nghiệp
Sự nghiệp giả hà
Trung hiếu nhi dĩ
Trung hiếu vi ngũ luân chi thủ
Khuyết nhất bất khả
Nhĩ đẳng đương tư : 
Vi tử như hà khắc hiếu
Vi thần như hà khắc trung
Huynh đệ như hà khắc hòa
Phu phụ như hà khắc kính
Bằng hữu như hà khắc tín
Thượng tắc kính thiên thần
Sự tổ tiên
Hạ tắc độ âm hồn
Hành âm chất
Như thử vi nhân
Thứ hồ tận đạo
Bất nhiên sinh la vương pháp
Tử thụ thiên khiển
Vĩnh ly nhân loại
Bất do nhân đạo
Nhĩ đẳng ký đầu vi đế đệ tử
Tảo tảo hồi đầu phụng hành chúng thiện
Năng khứ chủ ác
Thủ đôn ngũ luân
Thứ hành âm chất
Tửu sắc tài khí
Nghiêm nhi tuyệt chi
Kiêu lận tham ô
Cấm nhi giới chi
Hành đế nhân nghĩa
Bất tuất nhân ngôn thủ đế trung hiếu
Bất phân tục niệm
Xử gia đình dĩ chất phác di tử tôn dĩ trung hậu
Sĩ nông công thương
Các hữu thường nghiệp bất luân thâu bạc
Hàm quy hậu đức
Tự nhiên thần khâm quỷ phả
Tai khứ phúc lai
Bất tất độc kỳ đế thần
Nhi thiên tường vân tập
Vạn phúc biền trần
Khởi bất lạc tai
Nhĩ đẳng miên nhi hành chi
Thảng vi chánh huấn
Vật tụng đế kinh
Lâm chi
NGŨ PHƯƠNG HỔ THẦN QUAN TÁN
Tán viết :
Cực chi ngũ hành
Địa chi ngũ phương
Nhân chi ngũ luân
Thiên chi ngũ thường (1)
Ngưỡng nhi quan yên
Ngũ đế thị Hoàng
Hoàn nhi liệt yên
Ngũ hầu nghi Vương (2)
Ngũ Kinh Ngũ Vỹ
Vân Hán vi chương
Ngũ Xa
Ngũ Hoành
Đẩu vận tề quang (3)
Đồ thành ngũ điểm
Ngũ số chương dã
Trù tự Ngũ sự
Ngũ phúc khang dã (4)
Ngũ thổ toại tính
Hậu đức vô cương
Ngũ quan tư chức
Thuận đức giả xương (5)
Như tấu Ngũ âm
Thần nhân kỳ khương
Như điều Ngũ vị
Đỉnh nại kỳ trương (6)
Thánh thể năng cần
Ngũ cốc dụng lương
Thánh tâm duy tịnh
Ngũ trần đốn vong (7)
Ư đông ư tây
Nam Bắc trung ương
Biến nhi hóa chi
Ngũ nhạc đường đường (8)
Vi thanh vi bạch
Xích hắc huyền hoàng
Thần nhi thông chi
Ngũ vị dương dương (9)
TRẦN THÁNH ĐẠI VƯƠNG BẢO CÁO
CHÍ TÂM QUY MỆNH LỄ :
Đông A Đế trụ
Nam Đảo Tiên tung
Phù quốc cứu dân
Đẳng huân công vu Thiên Địa
Trừ gian thảo loạn
Phấn uy vũ vu Bắc Nam
Nhất thân gia quốc chi hoài
Ân ưu Khải Thánh
Vạn cổ đan thanh nhất bức
Trác quán Tôn thần
Thạnh đức văn ư Đại Bang
Thiên thư quả định
Dư linh trấn hồ Việt Điện
Quỷ túy tiềm hình
Vũ tước gia phong
Thiên cung thống nhiếp hồ văn thân chi địa
Lộc tịch thế chưởng
Nhân giới hồ hóa dục chi phương



Cửu Thiên Vũ Đế Nhân Vũ 
Hưng Đạo Đại Vương


Trần Triều Hiển Thánh Thiên Tôn
Dịch nghĩa :
Bảo Cáo của Trần Thánh Đại Vương
Chí Tâm Quy Mệnh Lễ :
Trụ cột của Đông A
Giống tiên vùng Nam Đảo
Giúp nước cứu dân
Công lao sánh cùng trời đất
Trừ gian dẹp loạn
Uy vũ lừng cõi Bắc Nam
Một thân hai nỗi nước nhà
Lo lắng nặng lòng Khải Thánh
Muôn thưở lưu danh sử sách
Vẻ vang bậc nhất Tôn Thần
Thạnh đức rền khắp Đại Bang
Sách Trời định rõ
Dư linh trấn yên Việt Điện
Lũ quỷ trốn hình
Phong tước võ Thần
Chốn thiên đình thống lĩnh xứ văn thân
Giữ quyền Lộc tịch
Cõi dương thế duổi rong miền hóa dục
Cửu Thiên Vũ Đế
Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương
Trần Triều Hiển Thánh Thiên Tôn

 
TRẦN TRIỀU HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG CHÂN KINH
 
Chí tâm phục mệnh lễ
Trần triều hiển thánh
Hưng đạo đại vương
Cửu thiên vũ đế hóa thân vi tam giáo
Trưởng pháp phán ngũ lôi chi lệnh
Hoàn lượng mộng giáo
Ban phúc phù công danh
Bảo kiếm quang huy xá nhân gian chi yêu quái
Tứ sinh lục đạo hữu cảm tất phù
Tam giới thập phương vô cầu bất ứng
Vạn kiếp hữu sơn giai kiếm khí
Lục đầu thu thủy bất thu thanh
Nam quốc hữu linh tài đạo lưu vạn kiếp
Hương hoả hiển thánh tích vu vân động
Ký huyền đồng chi đệ hằng
Đại bi - Đại Nguyện - Đại thánh - Đại từ
Khai sơn hộ giáo. Linh ứng Đại vương
Thiên lôi thượng tướng
Trần triều chân nhân
Cảnh hoá phù hựu Đế quân Cửu thiên Vũ đế
Hưng hành diệu đạo Thiên tôn
.............*****.............

 


Chú giải :
Cực tức khí Thái cực trước khi phân định đất trời
tuy vậy trong đó Thái cực đã chứa âm dương và bao hàm cả sự hình thành nên Ngũ hành là 

Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ
Đất có ngũ phương là : Trung ương 

Đông – Tây – Nam- Bắc
Đạo làm người phải lấy chữ Ngũ luân là năm mối quan hệ giữa: Vua tôi- cha con- vợ chồng- anh em- bạn bè
Trời cũng có Ngũ thường là Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí- Tín Ngẩng đầu lên mà quan sát
để thấy chòm sao Ngũ Đế tôn nghiêm mà chính vị là sao Hoàng Đế
sao Thanh Đế ở phương Đông
sao Xích Đế ở phương Nam
sao Bạch Đế ở phương Tây
sao Hắc Đế ở phương Bắc Ta lại thấy các vì sao giăng quanh nhau mà vẫn phân định rõ từng vị trí
Chòm sao Ngũ Hầu gồm năm sao Đế Sư
Đê Hữu Tam Công
Bác Sĩ và Thái Sư chiếu mệnh cho mỗi vương triều(3) Kinh
Vỹ là tên các chòm sao : Vân Hán là tên gọi Sông Thiên Hà hoặc gọi là dải Ngân Hà;
Ngân Hán tạo nên nét đẹp cả bầu trời Sao Xa
sao Hoành là hai sao nằm ở vị trí chuôi của chòm sao Bắc Đẩu
khi sao Đẩu chuyển thì tất cả đều lấp lánh theo
(4) Trong Thiên Hồng Phạm Cửu trù của Kinh Dịch gọi Ngũ sự là : Mạo (dung mạo)
Ngôn (lời nói) Thị (xem)
Thính (nghe) và Tư (suy nghĩ)
còn Ngũ phúc là : Thọ (sống lâu)
Phú (giàu có) Khang minh (mạnh khỏe)
Du hảo đức (vui theo đức tốt) và Khảo chung mệnh (chết được nhẹ nhàng)
Ngũ điểm (năm chấm) trên lưng con Long Mã đã tạo nên Hà Đồ và năm con số trên lưng con Rùa đã làm nên Lạc Thư - Hai cơ sở để tạo nên thuyết Ngũ hành tương sinh và Ngũ hành tương khắ
(5) Đất chia làm năm loại : Xanh- vàng- trắng- đỏ-
đen và vạn vật cũng phải hợp với từng tính chất thổ nghi mà sinh trưởng
Biết thích nghi với điều tự nhiên thì ắt sẽ cho ta công đức sâu dày không bao giờ hết
Năm giác quan của con người ta đều có chức năng riêng biệt
biết sử dụng triệt để các chức năng là đã thuận theo cái đức của tự nhiên và do đó sẽ nhất định được phát triển vậy !
(6) Làm được những điều nói trên thì khác nào tấu lên khúc nhạc ngũ âm (gồm : Cung- Thương- Giốc-
Chủy- Vũ) để cho cả Thần và người đều vui vẻ
Như điều hòa được ngũ vị (gồm : Mặn- ngọt-
đắng- cay- chua) như đúc nên chiếc đỉnh để khuếch trương thành quả
(7) Nếu biết làm việc siêng năng thì ngũ cốc sẽ bồi đắp cho ta những kho lương thực dồi dào
Nếu lòng ta thanh tịnh thì ngũ trần cũng lập tức tiêu vong
(8) Dù Đông- Tây- Nam- Bắc- Trung ương (tức ngũ phương) có biến hóa đổi dời thì ta vẫn phải giữ cho tâm vững vàng như Ngũ nhạc (tức Đông Nhạc - Thái Sơn- Tây Nhạc - Hoa Sơn- Nam Nhạc - Hành Sơn-
Bắc Nhạc - Hằng Sơn và Trung Nhạc - Tung Sơn)
(9) Dẫu cho xanh hay trắng- đen- đỏ hoặc vàng thì cũng chẳng sao. Vì khi Thần và người cùng cảm ứng thông suốt cho nhau thì sẽ tạo nên sự linh hiển và Ngũ vị sẽ được vững vàng lồng lộng
st: Lê Công 

Văn khấn lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Văn khấn lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Văn khấn lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Theo phong tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Chùa chính là nơi thờ tự Phật, Bồ Tát, chư vị Hiền Thánh, Thần linh…
1. Ý nghĩa lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở Chùa vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ biết ơn Tam Bảo, cùng chư vị Hiền Thánh, Thần linh…
Chùa cùng với sự lưu truyền sự linh diệu trong Kinh Phật của các vị Phật, Bồ Tát, các chư vị Hiền Thánh, Thần linh trong nhiều trường hợp đã đi vào cuộc sống tinh thần của con người. Nơi thờ tự còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu nguyện Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng các Chư vị phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…
2. Lễ vật và cách cúng lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
Theo phong tục cổ truyền khi đến Chùa nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Nơi Chùa là nơi thờ Tam Bảo nên cần sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản… để dâng.
- Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng Chư Phật, Chư Bồ Tát.
3. Hạ lễ sau khi lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
Sau khi kết thúc văn khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.
Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính.
4. Văn khấn lễ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật ! (3 lạy)
Nam mô Đại bi, Đại nguyện, Đại thánh, Đại từ Bản tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Kính lễ Đức U Minh giáo chủ thùy từ chứng giám
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là: ............................
Ngụ tại: ..................................
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Cửa hoa, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới Toà sen báu.
Cúi xin Đức Địa Tạng Vương không rời bản nguyện, theo Phật phó chúc trên cung trời Đạo Lợi, chở che cứu vớt chúng con và cả gia quyến, như thể mẹ hiền, phù trì con đỏ, nhờ ánh ngọc Minh Châu tiêu trừ tội, trí tuệ mở mang, được mây từ che chở, tâm đạo khai hoa, não phiền nhẹ bớt. Khi còn sống thực hành thiện nguyện, noi gương Đại Sỹ, cứu độ chúng sinh. Khi vận hạn ốm đau, nhờ được đức từ hộ niệm, Thần Linh bản xứ giúp yên. Lúc lâm chung được nhờ ánh bi quang, vượt khỏi tam đồ, sinh lên cõi thiện.
Lại nguyện cho Hương linh Gia tiên chúng con nhờ công đức cúng dâng này thảy đều siêu thoát.
Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật ! (3 lạy)
ST: Minh Công

ĐỨC PHẬT LÀ AI?

ĐỨC PHẬT LÀ AI?


1- Đặt vấn đề Trong toàn vũ trụ đến nay, năm 2017, chỉ có 16 Đức Phật. Đức Phật là những người Trần trong các hành tinh có người của vũ trụ đã tu thành đạt ở hàm cao nhất gọi là Đức Phật. Các vị hiện là những người Trời cao nhất ở cõi Trời đang hàng ngày dẫn dắt con người (cả người Trời và người Trần) trong toàn vũ trụ tu tâm tích đức theo hướng Chân Thiện Nhẫn. Đức Phật là những người Trời vô cùng chân quý của vũ trụ này. Đây là một hiện thực, có thật, không phải là truyền thuyết, càng không được quan niệm là mê tín dị đoan.
2- Hàm của Đức Phật
    Những người Trời gọi là Phật được phân thành 3 hàm, đó là:
    Phật (không danh tính), có hàng ngàn vị.
    Thượng Phật (có danh tính như Văn Thù, Phổ Hiền Bồ tát, hay Đại Hải Bồ tát...), có hàng trăm vị và
    Đức Phật, chỉ có 16 vị.
    Hình 1 mô tả các cung ở cõi Trời, trong đó 3 cung Đức Phật, ĐP Như lai và Phật tổ Như lai là ở vị trí cao nhất. 16 vị Đức Phật nằm ở 3 cung này.Dưới cung Đức Phật đi theo ngược chiều kim đồng hồ là cung Thượng Phật (có danh tính như Văn Thù BT, Phổ Hiền BT...), rồi đến cung Phật (không danh tính). Dưới nữa là La Hán, Kim cương BT, Cao tăng BT, Tiên Thần, Thần linh, rồi đến cung Đế là thấp nhất, là nơi các linh hồn người dân thường chết về đây. Các cung này được đánh giá cao thấp là ở độ mịnh ánh sáng của mỗi cung. Cụ thể: Cung Đế có độ mịnh ánh sáng là 10-11 m, trong khi đó cung Phật Tổ Như Lai có độ mịn ánh sáng đến 10-32 m, là quá nhỏ mịn so với cung Đế. Cứ xem con số này ghi ở các cung, bạn sẽ thấy sức mạnh tâm linh của từng cung.
    Các Đức Phật đều là người Trần từ một trong 5 hành tinh có người trong vũ trụ.  (Xem thêm Hỏi Đáp 54- TRẬT TỰ VŨ TRỤ ). 
                      
                                                Hình 1

                            Bài này chỉ viết về Đức Phật.
3- Cấp Đức Phật
    Theo sự chỉ giáo của Đức Phật TCMN, các Đức Phật được phân ra cấp Thượng tôn và thấp hơn là 10 cấp từ 1 đến 10, cấp 10 cao nhất. Cụ thể, 16 Đức Phật hiện có được phân ra như sau:
Đức Phật Thượng tôn: Gồm 4 vị được phân ra:
     - Phật tổ Như Lai cao nhất, chỉ có 1 vị là ĐP Thích Ca Mâu Ni (TCMN), thời tại thế ngài là người Nepal, hoàng tử thứ 3 của nhà vua.     
     - Đức Phật Như lai có 3 vị là:
    ĐP Dược sư Luu Ly- người Srilanka (người dân thường tu thành Phật), 
    ĐP Chuẩn Đề- người Myama (người dân thường tu thành Phật), và
    ĐP ADIDA- người Ấn Độ (em trai nhà vua).
    Các ĐP Thượng tôn đều đã từng Thường trụ Tam Bảo.
Đức Phật: Có 12 vị được phân ra:
    - ĐP cấp 10: có 7 vị đều ở 4 hành tinh khác có người, không phải là người Trái Đất. Cụ thể như sau: 3 vị ở hành tinh lớn nhất và văn minh nhất; 2 vị ở hành tinh lớn thứ 2 và văn minh thứ nhì; còn hành tinh lớn thứ 3 và 5, cũng là nền văn minh đứng thứ 3 và 5, thì mỗi hành tinh có 1 vị. Trái Đất lớn thứ 4 và văn minh đứng thứ 4 thì không có ĐP cấp 10. 5 hành tinh có người nằm trong vũ trụ nằm cách nhau hàng triệu năm ánh sáng. (XemBài 67-MỘT SỐ THÔNG TIN VŨ TRỤ).
    - ĐP cấp 9: có 3 vị đều ở Trái Đất. Đó là:
       + ĐP Quan Thế Âm- người India (là công chúa thứ 3 của nhà vua).
       + ĐP Đại Thế Chí- người Myama (con trai thứ hai của nhà vua).
       + ĐP Di Lac- người India (người dân thường).
    Các vị này được sắc phong ĐP cấp 9 trong tháng 6/2017.
    - ĐP cấp 8: có 2 vị là người Việt Nam. Đó là:
     + ĐP Trần Nhân Tông- (vua nhà Trần). Phật danh Đại Đức Phổ, được sắc phong ĐP cấp 8 cách đây 61 năm.
     + Đức Phật Vạn Vân Quang (người dân thường tu thành Phật), được sắc phong ĐP cấp 8 trong tháng 6/2017.
    Hiện vũ trụ chưa có ĐP cấp 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1.
    Vậy bạn thấy các Đức Phật đều đã từng là những người Trần hiện thực và đã tu thành Phật.
4- Thường trụ Tam Bảo
    Các ĐP Thượng tôn đều đã từng Thường trụ Tam Bảo. Cụ thể thứ tự trước sau như sau:
    - ĐP Dược sư Lưu Ly Thường trụ Tam Bảo đầu tiên, cách đây khoảng 8000 năm.
    - ĐP Chuẩn Đề kế vị cách đây khoảng trên 5600 năm.
    - ĐP ADIDA kế vị cách đây khoảng trên 4200 năm;
    - ĐP TCMN Thường trụ từ cách đây trên 2500 năm cho tới nay. 
5- Sức mạnh tâm linh:
    Sức mạnh tâm linh của các Đức Phật được thể hiện bằng độ mịn của ánh sáng Linh hồn các Ngài. Độ mịn ánh sáng càng nhỏ thì sức mạnh tâm linh càng cao. Cụ thể như sau: 
    - Độ mịn ánh sáng Linh hồn Đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni là khoảng 10-32 m; 
    - Của Đức Phật Như Lai (ĐP Lưu Ly, ĐP Chuẩn Đê, ĐP ADIDA) là khoảng 10 -15 m; 
    - Của Đức Phật là khoảng 10-11,5 m. 
    (Độ mịn của hạt Nano, mắt ta không nhìn thấy, là: 10-9 m, tức bằng một phần tỷ của 1 mét. Như vậy độ mịn hạt ánh sáng của Linh hồn các Đức Phật là mịn quá xa so với hạt Nano).  
6- Tốc độ bay di chuyển
So với tốc độ ánh sáng (khoảng 300.000km/giây) thì tốc độ bay của các Đức Phật đạt như sau:: 
    - Đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni có thể bay với tốc độ bằng khoảng 7,22 lần tốc độ ánh sáng, hoặc cao hơn; 
    - Đức Phật Như lai: 6,22 lần tốc độ ánh sáng; 
    - Đức Phật: 5,22 lần tốc độ ánh sáng. 
        (Người âm bình thường bay với tốc độ 1750km/giây, bằng 0,0059 lần tốc độ ánh sáng).  
7- Khả năng thu nhận thông tin vũ trụ:
    Thông tin vũ trụ là một tập hợp thông tin trong toàn vũ trụ. Tập hợp thông tin này nằm ở đường biên của quả cầu vũ trụ. Ai tiếp cận được tới đường biên của quả cầu vũ trụ thì nắm được hết thông tin trong vũ trụ, nên cái gì cũng biết. 
Khả năng nắm thông tin vũ trụ của các Đức Phật như sau:
   - Đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni: 100% thông tin, nghĩa là cái gì Ngài cũng biết; 
   - Đức Phật Như lai: 90%; 
   - Đức Phật: 80%.
8- Hoạt động của các Đức Phật:
    Ở cõi Trời, các ĐP hoạt động trong các Hội đồng . (xem Hỏi Đáp 54- TRẬT TỰ VŨ TRỤ ).  Cụ thể như sau:
Hội đồng vũ trụ Thượng đỉnh: Là cơ quan Thường trực của Trời, nằm ở Trung tâm vũ trụ. (Trời là cơ quan tối thượng của vũ trụ, sinh ra vũ trụ và con người- cả người Trời và người Trần). Tất cả các Đức Phật đều tham gia Hội đồng này. ĐP TCMN là Chủ tịch Hội đồng, ĐP Đại Thế Chí là Thường trực Hội đồng. (Xem Bài 53- TRỜI LÀ GÌ? ).
Các Phân ban của Hội đồng: Các ĐP Thượng tôn đều là Trưởng các Phân ban của Hội đồng vũ trụ Thượng đỉnh. Các Đức Phật thì tham gia các thành viên các Phân ban, và là Trưởng các Tiểu ban.
Chú thích:
  Tất cả các Đức Phật đều phải được Trời và Hội đồng vũ trụ Thượng đỉnh sắc phong, không thể tự phong được.   
  Các Đức Phật đều hoạt động chi phối toàn vũ trụ, gồm 5 hành tinh có người, chứ không phải chỉ trên Trái Đất này.

GSĐích

QUAN NIỆM TAM TÀI VỚI CON NGƯỜI NHÂN TỬ NGUYỄN VĂN THỌ

QUAN NIỆM TAM TÀI VỚI CON NGƯỜI NHÂN TỬ NGUYỄN VĂN THỌ

Dưới nhan đề này, tôi sẽ dùng quan niệm Tam Tài để tìm hiểu về con người và đề phân loại các Ðạo giáo. Bàn về con người tuy là một vấn đề hết sức thông thường, quen thuộc, nhưng không bao giờ vô ích.
Quan niệm Tam Tài với con người
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Soplocles xưa đã nói: «Dầu trong vũ trụ này có gì đáng quí báu, đáng tôn sùng nhất đi chăng nữa, thì cũng chẳng có gì đáng quí báu, đáng tôn sùng hơn con người.» 
Nhưng nếu con người đáng quí báu, đáng tôn sùng nhất, thì con người cũng là cái gì khó hiểu nhất từ xưa đến nay. Từ bao thế hệ nay, chúng ta am hiểu về con người, nhưng cho đến nay, con người vẫn còn là một vấn đề khó hiểu. Thật đúng như câu ca dao:
Sông kia còn có kẻ đo,
Lòng người, ai dễ mà dò sâu nông.
Chúng ta thực ra chẳng ai dám nói là đã biết rõ mình. Ta thấy mặt mũi người khác, bóng dáng người khác, nhưng mà oái oăm thay, mặt mũi ta, bóng dáng ta, ta phải mượn gương, mượn nước, mượn máy ảnh, mới nhìn ra được.
Như thế tức là, ngay con người phiến diện của ta đã hết sức xa lạ với ta rồi. Chúng ta dùng nó hằng ngày, mà thực ra chẳng biết nó hính thù ra sao, hoạt động ra sao. Ðọc câu ca dao sau đây sẽ rõ:
Ðàn ông năm, bảy lá gan,
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người !
Ðến như óc, chất trí não, tâm tư chúng ta, thì ta lại càng mù tịt. Cho đến cuối thế kỷ 20, người ta vẫn tưởng rằng, chúng ta yêu bằng tim – bằng con tim thịt nằm trong lồng ngực – vì thấy nó hồi hộp, khi ta rung động, cảm xúc. Nhưng bây giờ thấy trong các bệnh viện, người ta thay tim rầm rầm, thay bằng tim thật, tim giả, thay van tim, mới vỡ lẽ ra rằng mình đã lầm. Gần đây, triết học Âu Châu còn khám phá ra rằng dưới lớp ý thức, còn có vô thức – hoặc là tiềm thức, hoặc là Vô thức đại đồng. Khám phá mới mẻ này thật ra chỉ mới mẻ cho Âu Châu, chứ Á Châu, từ mấy ngàn năm nay đã bàn hoài về vấn đề này, dưới những danh từ khác như: Ðại Ngã, Tiểu Ngã; Chân Tâm, Vọng Tâm; Nguyên Thần, Thức Thần;Thiên địa chi tính, khí chất chi tính, v.v.
Tóm lại, ta quả thật là một con người xa lạ đối với ta. Hằng ngày, ta sống kề cận với ta, với tâm tư ta, mà ta chẳng biết tâm tư ta ra sao.
Hằng ngày, ta khoe ta thế này, ta thế nọ, nhưng đến khi hỏi ta là ai, ta là gì, thì ta đành chịu không biết trả lời ra làm sao.
Chính vì thế, khi đem quan niệm Tam Tài, để soi rọi vào vấn đề con người, tôi thấy mình đã không làm một chuyện vô ích. Ðó chính là một cách suy tư, tìm hiểu về mình. Mà có chịu suy tư, tìm hiểu về mình, mới có thể biết mình, biết Trời.
Mạnh Tử viết:
Thấu triệt lòng, sẽ hay biết Tính
Hay biết Tính, nhất định biết Trời.
Tồn tâm dưỡng tánh chẳng rời,
ấy là giữ đạo, thờ Trời chẳng sai. 
Trung Dung cũng viết:
Biết người, trước phải biết Trời.
Hiểu Trời chẳng nổi, hiểu Người làm sao? 
Chia con người thành 3 phần, chỉ là một cách chia để tiện việc học hỏi. Khi cần tôi cũng có thể chia con người thành 7, thành 10. Nhưng dẩu sao, thì chia con người làm ba thành phần cũng đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn khá chính xác, khá đứng đắn về con người.
Trước đây trong bài THÂN THẾ VÀ ÐỊNH MỆNH CON NGƯỜI trong Đất Nước Tôi số 13, tôi đã kể lại hành trình của tôi từ quan điểm nhị nguyên – con người có Hồn có Xác – đến quan niệm Tam Tài – con ngườl có Xác, Hồn, Thần. Ðại khái tôi đã kể lại rằng: tôi đã tìm ra được quan niệm Tam Tài trong mấy giây đồng hồ giác ngộ tâm linh và từ khi biết được trong lòng có Ðạo có Trời, cuộc đời tôi đã chuyển hóa hết sức là mãnh liệt.
Quan niệm Nhị Nguyên, tôi học được do truyền thống xã hội; Quan niệm Tam Tài tôi học được do giác ngộ tâm linh. Nhưng nói cho đúng hơn, lẽ Nhất Quán của Trời đất mới là điều rốt ráo mà tôi đã lĩnh hội được.
Sau khi nhận ra rằng con người có ba phần: Tính (Thần), Hồn, Xác, tôi lại thấy được rằng: Các tôn giáo, tuy khác nhau bề ngoài, nhưng chung qui là đưa con người tới Thiên Ðạo, tới Ðại Ðạo. Thiên Ðạo, Ðại Ðạo hoàn toàn ở trong nội tâm ta, nó chính là đường đi từ Hồn, đến Thần, biến hóa Hồn con người thành Thần trời đất.
Trời, Ðạo Trời hằng tiềm ẩn trong lòng ta, và không hề rời ta một phút giây.
Những quan niệm trên đã đến với tôi hết sức là bất ngờ, nhưng hết sức là mãnh liệt. Và riêng tôi, tôi coi đó là một đại hồng ân mà Thượng Ðế đã ân tứ cho tôi.
Tôi nhận định thêm rằng từ trước tới nay, tôi đã đánh mất chiều kích sâu xa, cao đại của con người, mà chỉ mới sống hời hợt trên bình diện nhân tâm, chưa hề có ý tưởng, hay ước mơ sống vươn vượt lên trên cái Nhân tâm, chưa hề có ý tưởng đạt tới Thiên tâm. Và tôi tự nhủ rằng từ trước đến nay tôi đã sống mơ màng, ù cạc, không biết được chính bản thân mình.
Tuy nhiên, theo đúng tinh thần khoa học, tôi thấy những điều tôi vừa lãnh hội được khi ấy, nếu đem chia sẻ với chúng nhân, thì sẽ bị coi như là một giả thuyết. Nên tôi thấy nó còn cần được chứng minh.
Như quí vị đã thấy: Ðiều tôi được truyền dạy là:
Dưới lớp nhân tâm, còn có Thiên tâm, Thiên tính. Cho nên con người thực ra có 3 phần chính yếu:
Ði từ trong ra đến ngoài, ta có:
1- Phần Tính, phần Thiên Tính, hay phần Thiên, phần Trời phần Thần vĩnh cửu, làm căn cốt.
2- Phần Tâm, hay phần Nhân Tâm, tức là phần Nhân, phần Người, phần Hồn gồm trí lự, thất tình lục dục, bao phủ bên ngoài phần Thiên.
3- Phần ngoài cùng là phần xác, phần Ðịa, phần Ðất, phần vật, đóng vai trò hỗ trợ, bao bọc cho các phần cao quí bên trong, chẳng khác nào phần vỏ bên ngoài nơi cây, nơi quả.
Mục đích chân chính và cao siêu nhất của các đạo giáo là làm sao dạy con người rũ bỏ được phần xác, phần hồn, biến thiên, luân lạc trong vòng sinh tử, và chỉ giữ lại phần Thiên, vĩnh cửu và bất tử, y thức như một vệ tinh nhân tạo, càng lên cao, càng phải vất đi dần dần những phần phụ thuộc không còn cần thiết, mới có thể thoát vòng áp lực của khí quyển, mà đi vào không gian.
Hôm nay, khi viết đến vấn đề rất quan trọng này, một vấn đề đi ngược lại với quan điểm của quần chúng, tôi liền cầu chứug thánh hiền. Phép cầu chứng thánh hiền muôn thủa của tôi rất giản dị. Tôi nhìn quanh quất thấy một quyển sách nào mà mắt tôi nhìn thấy, liền cầm lên, và dở ra đọc. Trong trường hợp này, tôi rút ra quyền Thiền học, bộ thượng, do Suzuki viết và Trúc Thiên dịch. Tôi dở ra trúng vào trang 276, mà tôi chưa từug đọc, thấy có đoạn viết như sau:
Một thầy Bà la môn tên là Móng Tay Ðen mang đến cúng Phật hai cây bông nguyên cành rễ khổng lồ, thầy dùng phép thần thông nắm chặt mỗi tay một cây. Phật gọi tên, thầy dạ. Phật liền bảo: «Buông xuống đi». Thầy Bà la môn bỏ cây hoa tay trái xuống trước mặt Phật. Phật lại bảo buông xuống nữa. thầy bỏ luôn cả cây hoa tay mặt. Phật lại bảo buông nữa .Thầy Bà la môn bạch: «Tôi có gì đâu nữa mà buông bỏ. Phật muốn dạy gì?» Phật đáp: «Tôi không hề bảo thầy buông hết mấy cây hoa, tôi bảo thầy bỏ là bỏ sáu căn, sáu trần, sáu thức. Khi thầy bỏ được hết đến không có gì nữa để bỏ, đó là lúc thầy thoát ly tất cả ràng buộc của sanh tử, luân hồi…»
Như vậy cái nhìn của tôi bây giờ chính là cái nhìn mà Phật xưa đã có, và ý nghĩ của tôi đã được sự hưởng ứng, sự đồng vọng của Tiên Phật muôn đời.
Sau đó, ngẫu nhiên tôi lại đọc một đoạn của Ðại sư Paramahansa Yogananda tự thuật lại kinh nghiệm của một lần ông xuất thần đầu tiên. Ông tả rằng: «…Tôi thấy rằng từ Trung điểm thiên cung, tức là từ trung điểm Linh đài tôi, tung tỏa ra muôn ánh hào quang soi cùng Vũ trụ. Nguồn sống vĩnh cửu, như quỳnh tương tiên tửu rạo rực trong tôi. Âm thanh sáng tạo của Thượng Ðế, tôi nghe thành chữ Aum chuyển rung trời đất…Nhưng bỗng đâu phổi tôi bắt đâu thở lại. Tôi rất thất vọng vì thấy rằng, cái bao la vô cùng tận của tôi đã mất. Tôi lại trở về cái xác thân hữu hạn của tôi, chẳng xứng chút nào với Thần con người. Tôi như một đứa con hoang đàng đã từ bỏ đại thể vô biên, mà giam mình vào trong tiểu thể hữu hạn…» [4]
 Tôi cho đây không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, mà chính là khi lòng mình mà thành sẽ cảm động được trời đất, khi ý mình mà thành, thì thần minh sẽ phụ họa. Trở lại vấn đề, điều mà tôi cần chứng minh là con người có ba phần Thần, Hồn, Xác. Ðể chứng minh vấn đề này, tôi sẽ dùng thánh thư các đạo giáo kỳ thư bí điển trong thiên hạ văn chương triết học và ngôn ngữ Ðông Tây. Sự tương đồng tìm ra sẽ là ấn chứng cho một chân lý phổ quát, đại đồng.

Thuyết Tam Tài với Khổng giáo 

Nhờ dùng chìa khóa Tam Tài tôi mới mở ra được kho tàng Khổng giáo. Khổng giáo nhận con người có 3 phần: Xác, Hồn, Thần. Nhưng danh từ Khổng giáo dùng hơi khác:
– Xác
– Tâm, Nhân tâm, Nhân dục, Khí chất chi tính.
– Tính, Thiên tính, Thiên tâm, Thiên địa chi Tính, Ðạo tâm, Trung.
 Kinh Thư, Thiên Ðại Vũ Mô, kể lại rằng khi vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, đã truyền luôn cả tâm ấn sau:
Nhân tâm duy nguy,          人 心 惟 危
Đạo tâm duy vi,                  道 心 惟 微
Duy tinh, duy nhất,             惟 精 惟 一
Doãn chấp, quyết trung.    允 執 厥 中
Tôi dịch:
Lòng của Trời siêu vi, huyền ảo,
Lòng con người điên đảo, ngả nghiêng.
Tinh ròng, chuyên nhất ngày đêm,
Ra công, ra sức giữ nguyên lòng Trời
Mạnh Tử cũng phân biệt Tâm và Tính.
Trong sách Mạnh Tử, chương Tận tâm hạ, ông đã viết: «Tận kỳ tâm giả tri kỳ Tính dã; tri kỳ Tính tắc tri Thiên hĩ.» 盡 其 心 者 , 知 其 性 也 . 知 其 性 , 則 知 天 矣.
Dịch:
Thấu triệt lòng sẽ hay biết Tính,
Hay biết Tính nhất định biết Trời.
Chính vì Khổng tử và Mạnh tử hiểu rằng con người có Thiên tính nên đã chủ trương: Nhân chi sơ, tính bản thiện. Tống Nho sau này, hay dùng chữ Thiên địa chi tính để chỉ Thiên Tính, và Khí chất chi tính để chỉ nhân tâm, nhân dục.

Thuyết Tam Tài với Bà La Môn giáo 
 Bà La Môn giáo từ xa xưa vốn đã chia con người ra làm ba thành phần:
– Xác (thô thân)
– Nhân tâm (Jiva) (tế thân)
– Brahman, Atman, Ngã tuyệt đối (Absolute Self, Metaphysical Self).
 Bà La Môn gọi hồn con người là Tiểu Ngã, Thần con người là Ðại Ngã hay Atman.
 Atman hay Thượng Ðế ngự trị trong tâm khảm con người cũng chính là Brahman, Tuyệt đối thể trong vũ trụ. Ðối với Bà La Môn; con người chân thực của ta không phải là Tiểu Ngã nhỏ nhoi, mà là Ðại Ngã vô biên tế. Tat tvam Asi = Con chính là Cái Ðó; nghĩa là con chính là Atman, là Ðại Ngã bất khả tư nghị.
Katha Upanishad viết: «Ðại Ngã trổ cửa giác quan ra phía ngoài, cho nên người ta nhìn ra ngoài, mà không biết nhìn vào trong lòng mình. Có vài kẻ khôn ngoan trong khi đi tìm trường sinh, bất tử, nhờ nội quan quán chiếu, đã trực diện quan chiêm được Ðại Ngã.» 
Chandogya Upanishad viết: «Bao quát mọi hoạt động, bao quát mọi ước mơ, bao quát mọi hương vị, bao quát cả hoàn võ nầy, mà vẫn vô ngôn, vô ý, đó là Ðại Ngã của tôi, lồng trong tâm khảm tôi, đó là Brahman Thượng Đế. Sau khi từ biệt cõi trần này, tôi sẽ thể nhập vào trong Ngài…» 
Radhakrishnan, cựu Tổng Thống ấn Ðộ, cũng là một đại triết gia lừng danh quốc tế, đã viết: «Chân thể, lồng trong tâm khảm muôn loài, chính là tinh hoa tâm hồn con người. Bé hơn hết mọi sự, mà cũng lớn hơn hết mọi sự, tinh hoa âý tiềm ẩn trong tâm vạn hữu. Cái học thuyết làm cho bộ kinh ÁO NGHĨA THƯ được nhiều người trên thế giới hay biết, đó là học thuyết TA T TVAM ASI (Con Là Cái Ðó). VĨNH CỬU đã ở ngay trong con người, THẦN LINH đã ngự trị nơi tâm khảm con người. Vị THỦY TỔ Muôn Loài, mà ngũ quan chẳng biết, chảng hay, mà bao lớp lang hiện tượng như những bức màn vân vụ đã làm khuất lấp; vị Thủy Tổ ấy vẫn ngự trị, vẫn sống động trong tâm hồn con người…» [7]

Thuyết Tam Tài với Phật giáo 
Phật giáo cũng phân biệt nơi con người Vọng tâm và Chân tâm.
Vọng tâm hay Vọng ngã tức là Nhân tâm, gồm thất tình, lục dục sinh diệt, biến thiên; Chân tâm, hay Bản Lai diện mục, thời trường tồn vĩnh cửu.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm cho rằng có tìm ra được phần chân thường nơi con người thì mới mong thoát bến mê, bể khổ; bằng cứ chấp nhất nơi phần vọng tâm, vọng ngã, thì muôn đời luân lạc trong muôn kiếp phù sinh.
Phật nói với vua Ba Tư Nặc: «Ðại vương có biết trong thân có cái Bất Diệt không?» 
Phật lại dạy A Nan: «A Nan, ngươi muốn tu cho thành Ðạo, thì phải biết hai thứ căn bản: Một là căn bản vô thủy sinh tử, tức là hiện nay, ngươi và chúng sinh đều lấy cái tâm vọng tưởng mà nhận làm tư tính đó. Hai là Căn bản Niết Bàn tức là Thức Thứ Tám, vi tế tư tưởng của ngươi đang có, ngày nay gọi là Thức tinh nguyên minh đó. Bởi đem cái Thức tinh nguyên minh bỏ đi, nên tuy hằng ngày vẫn dùng đến, mà chẳng biết đặng cái thể của Bổn minh Tư Tính, đến nỗi lặn lội vào các thú mà thọ nghiệp sinh tử, luân chuyển, Thiệt là uổng thay?» [9]
Ðại đức Thích Chân Giám, khi bình đoạn này, đã viết: «Phải biết rằng chỗ thủ thắng của kinh này là toàn phá nơi Thức tâm, mà hiểu rành Căn Tánh, vì dùng theo Thức tâm mà tu, thì dầu trải qua trần hà sa số kiếp cũng không đặng đạo Bồ Ðề; còn do nơi Căn Tánh mà vào, thì trong lúc vừa khảy móng tay, cũng vượt lên đặng bậc Vô Học. Cho nên muốn quyết định thành chánh giác và chứng Niết Bàn, thì cứ lấy Căn Tính mà làm cái Tâm “nhân địa” rồi sau mới có thể viên thành được cái Giác ở nơi “quả địa”.»  [10]

Thuyết Tam Tài với Lão giáo 
Nhìn sang phía Lão Trang, ta cũng thấy rằng các Ngài chủ trương trong tâm còn có Ðạo, có Trời Tâm thì ở trong vòng tương đối, biến thiên, hữu vi, hữu tướng. Ðạo thì tuyệt đối, hàng cửu, vô vi, vô tướng, bất khả tư nghị. Muốn tu trì, dĩ nhiên là phải xây căn cơ trên Ðạo, phải hiểu thấu đáo về Ðạo phải siêu lên trên cõi hữu vi, hữu tướng, nhân vị, nhân tạo, mà đi vào cõi Vô vi, Tuyệt đối.
 Chính vì coi Ðạo là căn cốt muôn loài, nên ngay đầu sách Ðạo Ðức kinh, Lão Tử đã dành một chương nói về Ðạo.
Hóa công hồ dễ đặt tên,
Khuôn thiêng hồ dễ mà đem luận bàn.
Không tên, sáng tạo thế gian,
Có tên, là mẹ muôn ngàn thụ sinh.
Tịch nhiên cho thấy uy linh,
Hiển dương cho thấy công trình vân vi,
Hai phương diện, một Hóa Nhi,
Huyền linh khôn xiết, huyền vi khôn lường,
Ấy là chúng diệu chi môn,
Cửa thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi.
 Trang Tử, chính vì thấy rằng trong tâm mình còn có Ðạo, có Trời, có Bản thể bất sinh, bất tử, nên đã nói trong thiên Tề vật luận, Nam Hoa kinh:
Ta và Trời đất cùng sinh,
Ta và muôn vật sự tình chẳng hai.[11]
Âm Phù Kinh viết:
Thiên tính Nhân dã,     天 性 人 也
Nhân tâm cơ dã.          人 心 機 也
Lập Thiên chi đạo,      立 天 之 道
Dĩ định nhân dã.          以 定 人 也
Dịch:
Thiên tính là Người,
Nhân tâm là máy.
Lập ra Thiên đạo,
Ðịnh mực phiêu Người.
Trong bài tựa quyển Huyền Diệu Cảnh của đức Lã Ðộng Tân ta thấy Thiên đạo, Nhân đạo được định nghĩa như sau:
 Thế nào là Thiên đạo? Thiên đạo là tu tính, dưỡng mệnh, vượt tình trạng con người mà hợp với Trời. Thế nào là Nhân đạo?. Nhân đạo là giữ tròn ngũ luân, ngũ sự (giữ trọn nhân luân)
 Tóm lại Ðạo Lão cũng cho rằng con người có Thiên tính, và đắc đạo là «Hợp Thiên». Theo Ðạo Lão, lúc mới đầu con người còn mê muội, chưa biết được rằng Ðạo, hay Trời đã ở sẵn trong tâm, nên phải «tầm sư, học Ðạo», «tầm sư cầu Ðạo». Khi đã chứng Ðạo, sẽ thấy được rằng Ðạo đã ở sẵn trong lòng mình. Thế là đắc Ðạo, mà Ðắc Ðạo là Ðắc Thiên. Khi đã biết rằng Ðạo là căn cốt của mình, tự nhiên con người sẽ trở nên hồn nhiên, tiêu sái. Người xưa khen là có Tiên phong, Ðạo cốt. Ðối với người Trung Hoa Ðạo là Thiên, là Thần…
 Cho nên, khi phiên dịch câu Phúc Âm Thánh John: «Ðầu trước hết có Ngôi Hai, Ngôi Hai ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Hai là Thiên Chúa», người Trung Hoa đã viết: «Thái sơ hữu Ðạo, Ðạo dữ Thần đồng tại, Ðạo tức thị Thần.»

Thuyết Tam Tài với Hồi giáo 
Hồi gláo cũng chủ trương con người có ba phần. Trong hội nghị tôn giáo tại Lahore, Pakistan, tháng 12, năm 1896, ông Harzat Ahmad, đại diện chính thức của Hồi giáo đã dùng thuyết Tam Tài để giải thích và toát lược thánh thư Koran. Ông cho rằng thánh thư Koran chủ trương con người có 3 bình diện:
– Bình diện vật chất hay Naf-Ammara.
– Bình diện tâm hồn hay Nafs-lawwama.
– Binh diện siêu nhiên hay Nafs-matmainnah. [12]
 Koran cũng xác nhận một, cách khéo léo rằng:
– Thượng Ðế chẳng hề xa con người. [13]
– Thượng Ðế đã truyền Thần Ngài vào trong con người. [14]
– Thượng Ðế thực sự đã tràn ngập con người từ trong ra đến ngoài. [15]

Thuyết Tam Tài với Công giáo & Tin Lành 
 Công giáo, xét về phương diện giáo lý công truyền, thì chỉ chủ trương con người có hai phần: Hồn, Xác.
 – Hồn thì thiêng liêng, bất tử; xác thì tử vong. Khi còn sống, thì hồn, xác kết hợp mật thiết với nhau thành một con người, và sau này khi tới ngày tận thế và tới ngày phán xét chung, xác mọi người sẽ sống lại, hợp cùng với hồn để được thưởng hay chịu phạt đờì đời.
 Công đồng Latran IV (1215) và Vatican I (1869-1870) đã xác định con người chỉ có hai phần; hồn, xác và không chấp nhận quan niệm Tam Tài về con người của Plato, của phái Gnosticism, Manicheism, Apollinarianism.
 Công đồng chung thứ 8, họp tại Constantinople (869-870) phi bác lý thuyết cho rằng con người có hai hồn, và đã xác định con người chỉ có một linh hồn biết nghĩa lý.
 Ngược lại, Thánh kinh Công giáo lại chủ trương thuyết Tam Tài về con người.
 Trong quyển Con đường cứu rỗi (Le chemin du Salut) của Charles Gerber, một tác giả thuộc giáo phái Cơ Ðốc Phục Lâm, đã cho thấy:
– Chữ Thần được nhắc đến 827 lần trong Thánh kinh.
– Chữ Hồn được nhắc đến 873 lần trong Thánh kinh. [16]
 Giáo phái chứng nhân của Jehovah, sau khi lấy Thánh kinh để chứng minh rằng hồn con người thường được chỉ bằng những danh từ Psyché (Hi Lạp) hay Nephesch (Do Thái), còn lấy Thánh kinh để chứng minh rằng hồn con người không bất tử, nhất là dựa vào câu Ezechiel: «Hồn nào phạm tội, sẽ chết.» (Ezechiel, 18:24)
 Quyển The Secret Teachings of all ages (Vạn đại bí chỉ) cũng đã dùng Thánh kinh để chứng minh rằng hồn thì tử vong, mà Thần thì bất tử. [17]
 Vua David, đã nói trong Thi Thiên (Psalm) 82, câu 6: «Ta đã nói: Các người là Thần, và tất cả đều là Con Ðấng Tối Cao.»
 Chúa Giêsu phán trong Phúc Âm Yoan, chương 4, câu 24: «Thiên Chúa là Thần, nên những kẻ thờ phượng Ngài, phải thờ phượng bằng Thần, và sự thật.» Ngài lại chủ trương muốn vào nước Trời, phải được sinh lại bằng Thần, phải có Thần (Yoan, 3:4 -8). Nói thế có nghĩa là nếu con người mà không có Thần sẽ không thờ phượng Thiên Chúa một cách chân chính hữu hiệu được; nếu không có Thần không vào được Nước Trời. Quan niệm Tam Tài về con người đã được thánh Paul chủ trương hết sức rõ ràng. Trong thánh thư I gửi giáo đoàn Thessalonica, chương V, câu 23, Ngài viết: «Ước gì toàn thân anh em Thần, Hồn, Xác được giữ vẹn, không chê trách được, cho tới ngày Chúa Giêsu Kitô chúng ta đến.» Trong thư gửi cho giáo đoàn Do Thái, Ngài viết: «Vì lời Chúa sống động, linh nghiệm, sắc bén hơn bất kỳ gươm hai lưỡi nào, nó có thể thấu vào tới chỗ phân chia của Hồn và Thần.» (He. 4:12).
 Bản Bible de Jerusalem (Bản Thánh kinh Jerusalem) bình rằng đối với thánh Paul, TÂM phải nhường bước cho THầN, thì con người mới có thể sống một đời sống thần minh. [18]
 Nếu vậy thì chủ trương của thánh Paul có khác gì chủ trương của Ðạo Lão đâu ! Ðạo Lão Tử xưa đã dạy: «Tâm tử, Thần hoạt.» (Tâm con người phải chết đi, cho Thần được sống động).
 Paul Tillich, một thần học gia Thiên Chúa Giáo nổi tiếng hoàn cầu hiện nay, đã thuyết giảng một bài làm chấn động dư luận. Ðó là bài «Chiều kích sâu thẳm của đời sống con người». Bài giảng đó đã được đăng tải vào trong Tuyển tập của ông nhan đề là The Shaking of the Foundations, phát hành năm 1949 tại Anh Quốc. Trong bài này, Tillich đưa ra một nhận định hết sức mới mẻ về Thượng Ðế. Thay vì chủ trương Thượng Đế là một đấng ngự trên trời cao thẳm, mà mọi người cố tin là có, ông lại cho rằng Ngài chính là Căn Cơ, Gốc Gác con người.
 Ông viết: «Tên gọi của Căn Cơ sâu thẳm của muôn loài được gọi là Thượng Ðế. Danh từ Thượng Đế chính là để chỉ chiều kích sâu thẳm đó. Nếu danh từ này chưa có ý nghĩa gì với bạn, bạn hãy chuyển dịch danh từ đó thành chiều kích sâu thẳm của cuộc đời bạn, thành nguồn gốc bản thể bạn, điều quan thiết tối hậu của bạn, và là điều mà bạn chú trọng nhất. Có lẽ, để làm được như vậy, bạn phải quên đi những gì mà truyền thống đã dạy bạn về Thượng Đế, phải quên ngay đi cả danh từ Thượng Đế. Vì nếu bạn hiểu đư’ợc rằng Thượng Đế là chiều kích sâu xa của cuộc đời bạn, bạn đã hiểu được rất nhiều về Thượng Đế. Hiểu Thượng Đế như vậy, không thể rằng bạn là vô thần hay vô tín ngưỡng. Vì bạn không thể nghĩ hay nói được rằng: Sự sống không có chiều sâu; sự sống chỉ là nông cạn, hời hợt; bản thể chỉ là phiến diện, Nếu bạn thực tình đã thốt ra những câu như trên, thì bạn là kẻ vô thần; bằng không, thì bạn đâu phải vô thần. Ai hiểu biết được chiều sâu, tức là hiểu biết Thiên Chúa.» [19]
Giám mục John A. T. Robinson, Giám mục giáo phận Woolwich tạl Anh quốc, tác giả cuốn sách nhan đề là Honest to God tả lại rằng khi ông đọc bài giảng trên, ông đã mở mắt ra và mục kích sự chuyển hóa của truyền thống giáo lý từ chiều cao thành chiều sâu.
 Nhiều môn phái Tin Lành, như Transcendentalists (T), Anabaptists (A), Quakers (Q), và Liberal Theology (LT) đều đồng thanh chủ trương Thượng Đế ngự trị trong lòng chúng sinh và muôn vật.
 Emerson (T) cho rằng: «Mặc khải cao siêu nhất cho thấy rằng Thượng Đế đã ngự sẵn trong lòng mọi ngườ.» [20]
Storch và Munstzer (A) tin rằng đấng Christ ở trong lòng mọi người… Chẳng những con người có thể kết hợp với Thượng Đế, lại còn có thể trở nên như Thượng Đế. [21]
 Niềm tin cốt cán của Giáo phái Quakers chính là trong con người đã có Linh Quang Nội Tại (Inner Light), đã có đấng Christ, đã có Thượng Đế. Chính vì vậy mà họ coi mọi người là anh em, và cố gắng làm những công cuộc cứu trợ, để làm vơi nỗi khổ của nhân loại. [22]
 Schleieremacher (LT) và phái Thần Học Tự Do cấp tiến, cũng đồng ý trong tâm có Trời, cho nên tôn giáo đối với họ chính là sự trực tiếp nhận ra rằng trong Hữu Hạn có Vô Cùng; trong Dị Biệt, Tạp Thù, có Ðồng Nhất Bất Phân.[23]

Thuyết Tam Tài với Cao Ðài giáo 
 Cao Ðài giáo cũng chủ trương trong tâm con người, còn có Ðạo, có Trời. Ðàn cơ ở Trúc Lâm thiền viện, giờ Tuất, ngày 20-10-Quí Mão (14-11-1973), có ghi:
Ðạo có gì đâu, Ðạo ấy Trời.
Trời là Tiên, Phật cũng là Người.
Người mà giác ngộ, thành Tiên Phật.
Tiên, Phật vọng tâm cũng xuống đời.
 Cuối đàn cơ lại có một đoạn như sau:
Ðạo là chân lý trọn bề,
 Ở nơi tâm cảnh, chẳng hề có xa.
Tâm không tham vọng mị tà,
Cảnh dầu có biến, vẫn hòa cùng tâm.
Tâm là thiện ác khởi mầm.
Cũng là chủ tể, vững cầm hồn linh.
Tu tâm trước phải vẹn gìn,
Ðừng cho dục vọng nảy sinh nơi lòng.
Ðể tâm an định sạch trong,
Mới tường lẽ thiệt, tương đồng Thiên Nhân. 
 Ðức Cao Ðài, khi sáng lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, đã tuyên bố rõ ràng muốn đem THẦN trả lại cho con người.
 Trong bài Thánh Ngôn, ngày 25-02-1926, đăng tải trong Thánh Ngôn Hợp Tuyển, trang 8, có lời Ðức Cao Ðài phán: «Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm, từ ngày đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ này, Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí, đặng đủ tam bửu, là cơ mầu nhiệm siêu phàm, nhập thánh.
 Từ ngày Ðạo bị bế, thì luật lệ hãy còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản Thần, không cho hiệp cùng Tinh, Khí. Thầy đến đặng hoàn nguyên chân Thần cho các con đắc Ðạo…»
 Lời cơ trên kỳ kỳ, ảo ảo, nhưng chung qui đã xác quyết: Lập ra Ðạo Cao Ðài để hoàn nguyên Chân Thần lại cho con người. Và nếu con người không được hoàn nguyên Chân Thần thì không sao thành Tiên, thành Phật được.
 Cái nét đặc thù cao diệu nhất của Cao Ðài chính là Thượng Đế chẳng ở đâu xa mà chính là đã ở sẵn trong lòng con người, trong trung tâm đầu não con người, mà ta thường gọi là Nê Hoàn Cung. Trời, hay Thần con người, hay Cao Ðài, hay Thầy, hay Thiên Nhãn đã ngự trị sẵn nơi đó. [24]
 Có vậy ta mới hiểu những câu sau đây:
«Thầy ngự trong lòng mỗi chúng sinh
Chúng sinh giác ngộ, biết tu hành,
Thương yêu mựa tách người khôn dại,
Ðiều độ đừng chia kẻ dữ lành.» [25]
 Có hiểu Nhãn, hay Thiên Nhãn chính là Thầy, là Thượng Ðế ta mới hiểu lời lẽ sau trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: «Con hiểu Thần cư tại Nhãn. Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn gốc Tiên Phật do yếu nhiệm tại đó.» [26]

Thuyết Tam Tài với Mật tông, Mật giáo Ðông phương 
Mật tông, mật giáo cho rằng các pháp môn tu luyện tuy nhiều, nhưng có thể thâu tóm lại thành 3 loại:
Luyện xác (Hatha Yoga)
Luyện tâm (Lana Yoga)
Luyện thần (Raja Yoga)
tương ứng với ba phần xác, hồn, thần trong con người.[27]
 Như vậy các Huyền Môn Tây Tạng, và Mật Tông Ðông Phương cũng chấp nhận quan niệm Tam Tài về con người.

Thuyết Tam Tài với Thông Thiên Học 
 Thông Thiên Học, tuy chia con người thành 7 bình diện chính, 49 bình diện phụ, nhưng vẫn chấp nhận quan niệm Tam Tài về con người. Trong bài khảo cứu về Thánh ngữ AUM, do ông Fr. Mylne biên soạn theo tài liệu của ông, Arthur M. Coon, và đã được đăng tải trong tập san Tìm hiểu Thông Thiên Học, 1965, số Xuân Ất Tị, ta thấy nơi chú thích 1, trang 62, ghi như sau:
 Theo Giáo lý Thông Thiên Học, con người gồm có:
– CHÂN THẦN hay Ðiểm Linh Quang của Ðức Thượng Ðế vô cùng tinh anh, ngự trị tại cõi Niết Bàn.
– CHÂN NHÂN hay là Tam Thể Thượng gồm có Tiên Thể, Thánh Thể, và Thượng Trí, hoạt động ở trong những cõi Niết Bàn, Bồ Ðề và Thượng Thiên.
– PHÀM NHÂN hay Tam Thể Hạ, gồm hạ trí, thể vía, và xác thân hoạt động ở những cỏi hạ thiên, trung giới và hồng trần.
Nhưng theo tôi, cái điều quan trọng của Thuyết Tam Tài là trong con người, dưới lớp Phàm Ngã, còn có Chân Ngã; dưới lớp Nhân Tâm, còn có Thượng Đế làm chủ chốt.
Ðiều này cũng chính là niềm tin của Thông Thiên Học.
Trong Theosophia 3, do Thông Thiên Học Việt Nam, chi bộ Phụng Sự phát hành, từ trang 13 đến 34, ông Lê Thiện Duyên, một hội viên Thông Thiên Học, khi giải thích dấu hiệu Thông Thiên Học đã viết:
«Ấn Tín Salomon, tức là hình ngôi sao sáu cánh cài lên nhau, chính là biểu tượng:
Thượng Đế và Con người; Thượng Đế nội tâm (tức là Chân Ngã) và Phàm Ngã.
Chân Ngã và Phàm Ngã, hay nói cách khác, Thượng Đế và Tâm hồn con người, liên lạc với nhau hết sức là mật thiết, như hai hình tam giác xuôi, ngược, trong ấn tín Salomon, được cài lên nhau, hết sức là gắn bó, đến nỗi không thể nào gỡ ra được, rứt ra được.
Tam giác có đầu quay lên, tượng trưng cho Thượng Đế, hay con người thiêng liêng hay Chân ngã hay Chân Thần.
Tam giác đầu quay xuống tượrng trưng cho Phàm Ngã.
Như vậy ý nghĩa tổng quát của ấn tín Salomon, có ý muốn nói rằng hành giả nào muốn tìm đến thập tự Tau, tức cửa Ðạo, thì điều kiện tiên quyết là phải hợp nhất giữa mình và Thượng Đế. Ðiều này chỉ có thể đến, khi con người sống thuận theo Thiên Cơ và đồng thời khi thuận Thiên, tức nhiên nơi con người có sự hòa hợp giữa Chân Ngã và Phàm Ngã. Trong Phàm Ngã luôn luôn hiện diện tinh thần của Chân Ngã để nhờ đó, ta soi sáng bước đường hiệp nhất giữa con người và Thượng Ðế.»
Như vậy tôi đã chứng minh được điều mà tôi muốn chứng minh. Ðó là đối với Thông Thiên, trong Hồn còn có Thần; trong Nhân tâm còn có Thượng Đế làm chủ chốt.

Thuyết Tam Tài trong Văn chương và triết học 
Dante, một văn sĩ Ý thời Trung Cổ (1265-1321), cũng công nhận thuyết Tam Tài về con người. Nền nhân bản của ông coi vũ trụ là một toàn thể, và con người là nhãn giới tiếp giáp giữa Thượng Đế và vạn vật, là một thực thể duy nhất, nhưng nối kết với:
– Thế giới vật chất bằng ngũ quan.
– Thế giới tư tưởng bằng tâm tư.
– Thế giới huyền vi bằng Thần.[28]
Averroès (l126- l198), một triết gia Ả Rập ở Tây Ban Nha, đồng thời cũng là một nhà học giả Hồi giáo trứ danh, đã từng bình giải các tác phẩm của Aristotle, cũng chủ trương rằng hồn con người có liên lạc mật thiết với khối óc, và sẽ chết theo khối óc; nhưng, trong con người còn có Lý, tức là Nguyên căn vĩnh cửu. Tu luyện Lý ấy con người sẽ có thể kết hợp với Lý Sống Ðộng, với Ðại Trí vĩnh cửu phổ quát. [29]
 Môn phái Valentinian (thành lập vào khoảng năm 140 do Valentinus ở Alexandria, (cũng cho rằng con người có thể chia thành ba hạng:
– Phàm phu tục tử, xác đất vật hèn (Hyliques)
– Con ngườl có nhân cách (Psychiques)
– Con người có tiên cách (Spirituels) [30]
 Theo Papus, thì các triết gia huyền học hiện đại, khoa học huyền bí hiện đại, môn phái thần bí Allen Kardec và một số môn nhân Rosi-Crucians, cổ giáo Ai cập, mật giáo Kabbalah Do Thái, Pythagoras, Paracelsus và thánh Paul đều chủ trương thuyết Tam Tài với con người. 

Từ ngữ với Thuyết Tam Tài 
Nhị tổ điều tâm – tranh Thạch Khác 石 恪 (Ngũ Đại)
 Khảo từ ngữ các nước, ta thấy nước nào cững có những tiếng để chỉ Hồn và Thần và cũng phân biệt Lương Tâm và Nhân Tâm.
 Ta có thể viết:
 Thần = Lương Tâm
 Hồn = Nhân Tâm
 Như vậy, phần Thiên, phần Thần nơi chúng ta là Lương tâm, phổ quát vĩnh cửu; còn phần Nhân nơi ta là Nhân Tâm, biến thiên hạn hẹp.
 Lương tâm thời phi nhân, phi ngã.
 Nhân tâm thời mang sắc thái riêng tư của mỗi người. Nó là những bộ mặt hóa trang, mà mỗi người đã đeo lên trên Lương tâm – Chân diện mục – của con người.
 Khi ta làm điều gì xấu, thì Lương Tâm oán trách ta.
 Còn Tâm hồn ta thì xấu hổ, phàn nàn, hối hận.
 Tiếng Pháp, tiếng Anh gọi Lương tâm là Conscience. «Con-» là «cùng», «Science» là «biết», mà đã «cùng biết», thì phải là HAI chứ là MỘT làm sao? .

 Những cảm nghĩ của tôi về Xác, Hồn, Thần 
Quan niệm Tam Tài về con người giúp tôi nhìn tỏ về con người. Theo huyền học Kabbalah Do Thái, thì bình diện Tâm Hồn cũng được gọi là bình diện tinh tú (Astral plane).
 Ông Desbarolles, tổ sư khoa xem chỉ tay Âu Chãu, cũng đã theo truyền thống Kabbalah mà chia con người thành ba bình diện:
– Bình diện thần minh.
– Bình diện tâm hồn hay bình diện Tinh tú.
– Bình diện vật chất hay bình diện phàm trần.[32]
 Cũng có người lại chia Hồn thành Hồn Nước (âme liquide); Hồn Khí (âme aérienne).
 Tôi vẫn cho hồn là KHÍ. Nhưng nhìn sâu sắc hơn lại thấy hồn có hai phương diện:
– Hồn Trọc = Phách (cấu tạo bằng trọc khí). Ðây là sở cư của thất tình lục dục, mà các nền luân lý của các Ðạo giáo cố công tìm cách kềm chế, chuyển biến.
– Hồn Thanh – Thanh Khí = Hồn (Cấu tạo bằng thanh khí). Lòng yêu chuộng nghệ thuật cũng từ nơi đây phát sinh.
 Dù Hồn là thanh khí, hay trọc khí cũng vẫn là cái gì hữu hạn, biến thiên, nên nó chính là cơ sở tạo nên cá nhân, cá tính, tạo nên phân biệt.
 Vì hữu hạn, nên bao giờ cũng khao khát, cũng khắc khoải. Vì biến thiên, nên vẫn ở trong vòng sinh tử, luân hồi. Vì mang đầy cá nhân, cá tính, nên còn hết sức là ti tiểu.
 Á Ðông mỗi khi kể chuyện người chết hiện hồn về đều mô tả như là một làn sương khói, tuy vẫn thấy hình, nhưng sờ nắm không còn được nữa. Ðại khái vẫn như là một «làn KHÍ» tụ lại…
 Thần, đối với tôi là một Linh Quang. Gọi là Linh quang vì nó tỏa lan khắp vũ trụ. Nó là một loại ánh sáng vi tế hơn «vũ trụ tuyến», có thể xuyên thấu mọi sự, chứ không phải thứ ánh sáng thông thường có tốc độ 300.000 ngàn cây số một giây, mà mắt phàm ta nhìn thấy được.
 Vì tỏa lan khắp nơi, xuyên thấu mọi sự, nên được gọi là ở khắp nơi, «vô sở bất tại». Vì thế Dịch kinh viết: «Thần vô phương, nhi Dịch vô sở.» Vì xuyên thấu mọi sự nên có năng lực vô biên. Vì là Linh Quang nên thông sáng vô cùng tận. Người xưa cho Thần là thông minh vô cùng, phép tắc vô cùng, ở khắp mọi nơi chính là vì vậy.
 Lúc mà THẦN đã thông, không còn bị kẹt trong sa mù nam châm của khí, của hồn; và trong vòng trọng trọc của vật chất, xác thân, lúc ấy Thần sẽ vô biên, sẽ khinh khoát, sẽ vĩnh cửu. Người xưa gọi thế là Giải thoát.
 Hiểu Thần, Hồn, Xác như vậy, mới có thể hiểu nghĩa đích thực của các đạo giáo, và về các vấn đề hữu hạn, vô hạn; tù túng, giải thoát; biến thiên và hằng cửu.
 Thần trong quan niệm Tam Tài của tôi phải được hiểu là Tuyệt đối thể vô biên vô tận. Nơi đây không còn Thanh và Sắc… Nơi đây là nơi vắng lặng không hư, chỗ qui tụ, hòa hài của thánh hiền, Tiên, Phật muôn thủa, muôn nơi… Ðược vậy, chính là vì đây là «Nơi không Nơi», «không đây, không đó».
 Quan niệm Tam Tài về con người đề cao giá trị của con người. Nó giúp chúng ta thấy rằng tuy các bình diện bên ngoài, các bình diện xác hồn con người thì biến thiên, sinh tử, nhưng bình diện căn cốt của con người lại trường sinh, vĩnh cửu.
 Mới hay:
Cái tạm bợ bao ngoài vĩnh cửu,
Áo thô sơ che dịu gấm hoa !
Rồi ra vàng ngọc chói lòa,
Trời người hợp nhất, Trung Hòa vô biên.
 – Vì con người có Xác, nên mới có Ngũ Quan để tiếp xúc với ngoại cảnh.
 – Vì con người có Hồn, cho nên có thất tình lục dục, có trí lự để suy tư, để yêu cái này, ghét cái nọ.
 – Vì con người có Thần nên có Linh giác, Linh cảm, Linh Tri, Linh Tính, hay Tuệ giác, để tiếp xúc với Thần Linh, để khám phá ra những bí nhiệm của Trời đất.
 Bên Á Châu cho rằng cái hiểu biết cao siêu, toàn bích là do Tuệ giác, Linh tri, Linh Giác. Bên Âu Châu thì cho là do Thượng Đế mặc khải. Càng ngày các bậc thượng trí, thượng nhân trong thiên hạ đều chủ trương rằng Linh Tri, Linh Giác hay Mặc khải không phải là hồng ân dành cho một số người nào đặc biệt, cho một thời đại nào đặc biệt, mà bất kỳ ai, nếu dày công tu luyện, sẽ đạt tới Linh Giác. Người ta thường cho rằng chỉ có đại thánh, đại hiền mới được diễm phúc đối thoại với Thượng Đế. Riêng tôi, tôi thấy chúng ta thường xuyên đối thoại với Thượng Đế, qua tiếng Lương Tâm, mà chúng ta không hề hay biết…
 Các tôn giáo công truyền xưa nay quan niệm hết sức sơ sài về Thần, Hồn, Xác. Hỏi bản tính Thượng Đế là gì, của Thần là gì, thì nói là tính thiêng liêng. Hỏi bản tính của hồn là gì cũng trả lời là tính thiêng liêng. Nhưng nếu hỏi thêm thiêng liêng có bản chất là gì, chắc là không trả lời được Khi biết mù mờ về con người, sẽ bế tắc khi nói về trường sinh, và giải thoát, và cũng sẽ rất hồ đồ về phương pháp tu luyện. Ðối với tôi truy nguyên về bản tính của Thần, Hồn, Xác là một vấn đề tuyên quyết, một vấn đề căn bản. Chúng ta hãy đi từ cái thô thiển nhất, trang trọng nhất, để tiến lên dần tới cái khinh thanh nhất và tế vi nhất.
 Xác dĩ nhiên là trọng trọc và thô thiển. Xác là vật chất hữu hình. Xác gắn liền với ngoại cảnh, với vật chất, với đất. Xác có ngũ quan để liên lạc với ngoại cảnh. Cỏ cây thảo mộc, cầm thú đều có sinh, có hủy. Xác con người cũng có sinh, có hủy. Chết đi xác con người lâu dần sẽ đồng hóa với đất đai. Ai là người mà đã chẳng chứng kiến cảnh tan rã, hủy hoại của thân xác con người?. Xác như vậy là Ðất, là Nước.
 Hồn con người, xét về bản tính, là KHÍ. Khảo từ ngữ Nhật Bản, ta thấy có điều lạ lùng này, là chữ Khí trong tiếng Nhật tương đương với chữ Hồn. Người Nhật rất chú trọng đến phần KHÍ trong con người, vì nó liên quan đến sức khỏe con người, tâm trạng con người. Họ cũng cho rằng bầu khí quyển bên ngoài mà biến chuyển, thì tâm trạng con người cũng biến chuyển.Vì thế khi viết thư từ cho nhau, bao giờ cũng bàn về thời tiết trước tiên. Ví dụ họ viết: «Ten ki ga ii desu.» (Khí Trời tốt), «Ten ki ga warui desu.» (Khí trời xấu) Khi muốn hỏi thăm sức khỏe nhau họ nói: «Ki bun ga ikaga desu ka?» (Khí phận Ngài hôm nay ra sao?) Tâm trạng vui buồn trong con người, hay dở trong con người, được coi như là khí khi tốt, khi xấu trong con người.
– Ki bun ga ii desu = Khí phận tốt – Vui = Sảng khoái – dễ chịu.
– Ki bun ga warui desu = Khí phận xấu = Bực bội, khó chịu.
 Có điều Khí đây là thứ Khí đặc biệt: Ðó là những «ions» + và «ions» – , nên luôn luôn phát sinh ra một từ lực và một từ trường. Khi gặp nhau, từ lực, từ trường của mỗi người đan quyện với từ trường từ lực của mọi người; rồi từ lực, từ trường của mình lại đan quyện với từ lực từ trường của quần sinh, vũ trụ. Chính vì vậy mà các đạo giáo Ðông Phương cho rằng con người bị «nhân duyên triền phược» và con người tự giam hãm mình vào trong những vòng cương tỏa gian trần.
 Dịch nói: «Tại thiên thành tượng.» Ở nơi tâm hồn, ta thấy đầy dẫy những ảnh tượng mà gian trần , mà xã hội đã in vào. Những ảnh tượng này thường ảnh hướng rất nhiều đến tâm trạng con người. Và những bão tố trong tâm hồn bên trong cũng y như những bão tố từ trường nơi vũ trụ bên ngoài. Ý niệm của chúng ta cũng bắt đầu hình thành ở nơi đây. Âu Châu có nhiều môn phái coi tính chất của hồn tương đương với tính chất các vì tinh tú, nên gọi thể hồn là ASTRAL (thể tinh tú).
 Nó đề cao giá trị con người, vì cho thấy Thần con người và Thần Trời đất là Một… Nó chỉ vẽ cho con người con đường đạo giáo chân thường: đó là đi vào nội tâm mà tìm Ðạo tìm Trời. Nó lại dạy con người một bí quyết hết sức nhiệm mầu khác là một khi đã đạt Thần, đạt Ðạo, đạt Thiên, lập tức phải rũ bỏ những gì biến thiên, tử sinh, hư ảo: đó là vật chất xác thân, đó là nhân tâm, tiểu ngã nếu chẳng vậy không thể nào thực hiện được khẩu quyết: «Ta và Cha Ta là Một.» (Yoan 17: 20-21)
 Cho nên, tu luyện thời mới đầu là lo cho thân xác được thoải mái, khoẻ mạnh; rồi lo cho tâm hồn ngày một nên tế vi, tinh khiết, tỉnh lãng, thanh cao.
 Cuối cùng là đạt trạng thái thần linh, tức là sống một cuộc đờl huyền hóa với trời đất, hồn nhiên, vô vi, vô dục, khoáng đãng, hư linh bất muội. Thế chính là đạt đạo, đắc đạo, phổ quát, bất biến, trường tồn, vĩnh cửu.
 Thực tế hơn, thì phải nói ta có thể cảm thấy xác thân, cảm thấy hồn dễ dàng, vì xác thân nằm trong phạm vi giác quan chúng ta, vì tâm hồn chúng ta có thất tình lục dục, có những thú thanh cao thuộc về thi ca, nghệ thuật. Nhưng còn Thần, còn Trời nơi ta, ta nghĩ rằng ta không sao cảm thấy được.
 Tuy nhiên, ta vẫn có trong tầm tay ta một phương tiện để cảm thấy Trời, thấy Thần trờl đất nơi ta. Thực vậy Trời chẳng ở đâu xa, Trời đã ở ngay trong tâm hồn ta. Trời chính là Lương tâm chúng ta.
 Tâm tư con người hằng giây, hằng phút biến thiên; Lương tâm con người muôn đời bất biến. Lương tâm con người vượt tầm không gian, thời gian; đã hiện diện ở nơi con người đầu tiên trên mặt đất, và sẽ hiện diện y như vậy nơi con người sau chót. Nó mới chính là Lời Chúa, nó mới chính là Thánh kinh, nó mới không sai lầm, nó mới vĩnh cửu.
 Lương tâm chính là cái gì cao quí nhất, đẹp đẽ nhất của nhân quần. Sống hoàn toàn thuận theo lương tâm, tức là sống hoàn toàn thuận theo Thiên Lý, và như vậy sẽ là một vị Thánh, Hiền, Tiên, Phật ngay từ khi còn ở gian trần này. Phật, Thánh xưa nay chẳng qua là những hiện thân của Lương tâm, của Thượng Đế…
 Pierre Abelard, một triết gia Pháp, thời trung cổ (1079- 1142) đã nói rằng: «Con người phạm tội là khi nào làm điều trái nghịch với lương tâm. Cái lề luật thiên nhiên ấy đã có trước sự mặc khải của các đạo giáo. Trước Moses, con người đã biết sống theo thiên lý. Socrates và Plato còn có đời sống thánh thiện hơn những người Công giáo sau này. Người Công giáo, người Do Thái và nhà triết học khi đàm thoại với nhau đã gặp nhau ở điểm tương đồng này, là lấy lương tâm làm kim chỉ nam cho luân lý và cho nhân loại…» [34]
 Tôi đã dùng thuyết Tam Tài, để nghiên cứu sự diễn biến của Văn Hóa, của Ðạo giáo và của Lịch sử trên triền thời gian.
 Thời Thượng cổ, nhân loại sống theo chữ Thiên, và đã tin rằng con người gồm đủ Tam Tài: Thần, Hồn, Xác. Nền đạo giáo cao siêu nhất của thời đại ấy là Thiên đạo, mà Thiên đạo là luyện Thần để sống phối hợp vớl Thượng Đế. Ðạo Lão gọi thế là Luyện Thần hoàn Hư, phục qui Vô Cực.
 Không thể nói được là ai đã lập ra Thiên đạo, vì Thiên đạo từ muôn thủa đã bàng bạc trong vũ trụ, và đã ẩn áo trong tâm linh con người Thánh, hiền, Tiên, Phật là những người có công khám phá ra Thiên đạo, và đã thực hiện Thiên đạo. Cho nên đối với tôi, Thiên đạo là «Ðạo vũ trụ», là «tôn giáo vũ trụ» (cosmic religion). Nó là của chung của muôn phương, và đã dành sẵn cho những tâm hồn thành khẩn nhất, đẹp đẽ nhất, hào sảng nhất. Nó có mục đích tối hậu là làm cho con người trở thành Thần, Phật, chứ không chủ trương van vái, lạy lục Thần, Phật.
 Thời Trung cổ, nhân loại theo quan niệm «lưỡng nguyên», và chỉ còn tin rằng con người có xác, có hồn. Nên cái đạo phổ biến nhất của thời ấy là đạo «tu tâm», sống sao cho công bằng, bác ái. Thời Trung cổ sống theo chữ Nhân. Các Ðạo giáo được sáng lập phần lớn là trong thời đại này. Chúng là những «Ðạo giáo lịch sử» (historical religions), nghĩa là có người sáng lập hẳn hoi, có khuôn phép, lễ nghi hẳn hoi. Tuy nhiên, chúng chỉ dạy rằng con người là con người. Con người không thể nào trở thành thần minh. Ðạo giáo lập ra cốt là để ca tụng thần minh, thờ phụng Thần minh, van vái thần minh để cầu phúc, nhương tai. Chúng có mục đích dạy con người thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Thế là đạo giáo đặt trọng tâm đi vào đời, để cải thiện đời, cải thiện xã hội. Ðạo giáo trong thời đại này, với hai chủ trương chính yếu là thờ phượng Thần Linh và yêu mến tha nhân, đã trở nên phóng ngoại, và dần dần đánh mất chiều kích tâm linh. Chủ trương của tôn giáo trong thời kỳ này là con người không bao giờ có thể nên bằng Thần Linh, không bao giờ có thể trở thành Thần Linh. Như vậy, con người đã từ chối giá trị siêu việt của mình, và đành mang lấy thân phận tôi đòi, đối với Thần Linh. Thật là:
 Ra vào theo lũ thanh y,
 Dãi dầu tóc rối, da chì quản bao. (Kiều)
 Thời Cận kim, nhân loại chạy theo chủ nghĩa Duy vật, chỉ tin rằng con ngườl duy có xác. Hồn chỉ là hư danh, hay phụ tượng không đáng kể. Và cái đạo phổ quát nhất là cái đạo hình thức bên ngoài; là những công trình khai thác ngoại cảnh. Trào lưu được sùng thượng là xu phụ xác thân, tiền tài, danh lợi, hưởng thụ khoái lạc nhãn tiền.
 Nhưng theo lẽ Dịch, cái gì cùng cũng sẽ biến; cái gì «vãng», cũng có lúc «phản». Vì thế nên trong tương lai, ta có thể tin chắc chắn rằng nhân loại sẽ đi lại ba chặng đường Tam Tài, nhưng sẽ đi theo chiều ngược, nghĩa là sẽ đi từ Vật đạo, tới Nhân đạo, rồi cuối cùng sẽ trở về Thiên đạo. Như vậy thuyết Tam Tài cho chúng ta một cái nhìn toàn bích về vai trò các đạo giáo, và ý nghĩa lịch sử nhân quần. Quan niệm Tam Tài cho thấy con người có 3 thứ đạo phải theo, phải giữ.
  1. Vì có xác nên con người có Vật đạo. Vật đạo là lo khai thác ngoại cảnh, thích ứng với ngoại cảnh, để cho xác thân được no ấm, khỏe mạnh.
  2. Vì có hồn, con người phải theo Nhân đạo. Nhân đạo dạy tu tâm, luyện tính, ăn ở xứng đáng với danh nghĩa con người, đối đãi với nhau cho vẹn tình, vẹn nghĩa, vẹn niềm kính ái, thủy chung, cốt sao cho tâm tư an lạc, gia đình đầm ấm, xã hội hòa ái.
3.Vì có Thần, nên con người phải theo Thiên đạo. Thiên đạo có mục đích tìm ra Chân Thần khuất lấp sau những bức màn hiện tượng tâm tư dầy đặc, trở thành Thần Linh, siêu xuất sinh tử. Như trên đã nói, hồn là phần biến thiên trong con người mà đã biến thiên ắt phải ở trong vòng sinh tử. Thần mới là phần bất biến trong con người. Mà đã bất biến, mới bất sinh, bất tử.
Mục đích tối hậu của con người là rũ bỏ cái xống áo biến thiên, sinh tử bên ngoài, để mà thể hiện cái Bản thể Thần Linh bất tử bên trong.
Nho gia gọi thế là: Khử nhân dục, tồn Thiên Lý.
Lão Trang gọi thế là: Tâm tử, Thần hoạt.
Bà La Môn gọi thế là: Tat Tvam Asi: Con là Cái Ðó.
Phật giáo gọi thế là thoát vọng tâm, thể hiện Chân tâm; siêu sinh tử, nhập Niết Bàn.
Không chấp nhận mình có Thần, vĩnh viễn không bao giờ vào được Nước Trời. (Yoan, 3:5-6), vĩnh viễn không bao giờ trở thành Tiên, Phật. Thần trong con người là hạt giống Tiên, Phật, Thần, Thánh. Không có Thần, dẫu tu muôn đời cũng không thoát được kiếp người… Ấp trứng gà, làm sao nở ra lại thành chim phượng?.

KẾT LUẬN
Quan niệm Tam Tài, mà tôi đã trình bày như trên, có một tầm kích hết sức quan trọng,
Nó giúp chúng ta đi sâu vào chiều sâu tâm hồn, để tìm cho ra Thần Linh vỉnh cửu, tiềm ẩn bên trong. Nó vạch lại cho chúng ta thấy con đường mà hiền thánh xưa nay đã dùng, để bước vào cửa Ðạo, cửa Trời.
Nó không phải là một cuộc thăm dò, bàn cãi suông, mà chính là một công cuộc thăm dò để tìm hiểu về thân thế và định mệnh con người, với mục đích đem lại một sự biến chuyển nội tâm hoàn toàn, một sự tái tạo, phục sinh không tiền, khoáng hậu. Nó cũng sẽ làm đảo lộn quan niệm thông thường về đạo giáo. Thay vì vụ vào những hình thức thờ phụng, cúng quải, van vái bên ngoài, nó thôi thúc chúng ta hướng nội, quay về với bản tâm, để tìm cho ra Thần Trời đất, tìm cho ra Thượng Đế làm căn cốt bên trong. Có vậy mới mong khế hợp nhất như với Thượng Đế, mới mong giải thoát thật sự.
Xưa có một người hỏi Ðốn Ngộ thiền sư. Thế nào là Phật?
Thiền sư trả lời: «Gánh nước bán đầu sông.» Nghĩa là trong ta đã có một dòng sông linh thiêng, vĩnh cửu, đã có một vị Phật vô biên, mà ta không biết, lại vất vả, chen chúc nhau, đi cầu Phật ở bên ngoài, cầu Chúa ở bên ngoài; đi mua những thứ nước đục, mà người ta ngạo nghễ đem bán cho chúng ta với một giá rất đắt, ngay bên bờ sông tâm linh của chúng ta…
 Câu chuyện trên làm ta liên tưởng đến lời Thiên Chúa, ghi trong Jeremiah 2:13, đã trách dân Do Thái:
«Dân ta lầm lỗi hai đàng,
Bỏ ta suối mát, đào quàng giếng khơi,
Nước thời chẳng thấy tăm hơi,
Giếng dò, giếng nứt, ôi thôi, khốn nàn !»
Vương Dương Minh xưa cũng có những lời, những ý tương tự. Tôi mượn ý, mượn lời ông phóng tác thành bài thơ sau:
Sao thắc mắc lo suốt ngày, suốt buổi?
Sao học hành, bàn cãi mãi mà chi?
Bao nghi nan, mâu thuẫn của vấn đề,
Dùng trực giác, phá tan trong chốc lát.
Lòng con người có chỉ nam từ sơ phát,
Trong lòng người đã sẵn đấng muôn trùng.
Có mọi sự trong kho báu đáy lòng,
Sao ta vẫn ăn xin từng cửa ngõ? [35]
Ước mong bài khảo luận về thuyết Tam Tài này sẽ giúp quí vị, trong muôn một, tìm ra được Thần Linh nơi tâm khảm, vượt qua trần hoàn này trong vinh quang, và thực hiện được Bản thể tối hậu của mình, dữ Thiên đồng nhất.  
CHÚ THÍCH
Công Minh